Thứ Hai, 29/04/2024 17:40 CH
Mở đường vào bến Vũng Rô
Kỳ 1: Nhận lệnh vượt giới tuyến
Thứ Tư, 26/11/2014 08:05 SA

Nguyên thuyền trưởng tàu 41 - Đoàn tàu Không số kể chuyện mở đường vào bến Vũng Rô cho thế hệ trẻ - Ảnh: T.THỦY

LTS: Sau Nghị quyết 15, Bộ Chính trị quyết định mở rộng tuyến vận tải chi viện chiến lược, trước mắt phải mở đường biển chuyển vũ khí vào miền Nam. Giữa năm 1964, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Bộ Tổng tham mưu phối hợp với Bộ Tư lệnh Hải quân nghiên cứu mở bến, thực hiện chi viện vũ khí cho Khu 5. Ngày 28/11/1964, chuyến tàu Không số đầu tiên theo đường Hồ Chí Minh trên biển, chở hơn 60 tấn vũ khí, thuốc men đã cập bến Vũng Rô an toàn. Nhân kỷ niệm 50 năm sự kiện lịch sử này, Báo Phú Yên giới thiệu cùng bạn đọc hồi ký của Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Hồ Đắc Thạnh, nguyên Thuyền trưởng tàu 41 - Đoàn tàu Không số.

 

NHẬN LỆNH

 

Chuyến đi Cà Mau thắng lợi vừa về đến Hải Phòng ngày 1/11/1964. Cán bộ chiến sĩ tàu 41 đang họp rút kinh nghiệm và tranh thủ nghỉ ngơi sau những ngày vật lộn với sóng to gió lớn thì được lệnh: “Đưa tàu về cảng Đồ Sơn để nhận nhiệm vụ”. Lúc đó là 16 giờ ngày 10/11/1964, tôi trao đổi với Thuyền phó Hồng Lỳ và Chính trị viên Trần Hoàng Chiếu “tranh thủ cho anh em ăn cơm sớm để lên đường”. Đêm mùa đông lạnh buốt và sương mù nên đến 19 giờ tàu mới tới cảng Đồ Sơn. Tàu cập bến, tôi và Chính trị viên Trần Hoàng Chiếu được xe chở về Sở chỉ huy Quân chủng. Tại phòng họp đã có mặt Tư lệnh quân chủng Nguyễn Bá Phát, Chính ủy Hoàng Trà, Đoàn trưởng Đoàn Hồng Phước, Chính ủy Võ Huy Phúc, Chủ nhiệm chính trị Võ Hành và các sĩ quan tham mưu chuyên trách vận chuyển B. Bộ Tổng Tham mưu có Phó cục trưởng Tác chiến B Phan Hàm, Cục trưởng Bảo vệ Kinh Chi và một người nữa là đồng chí Trần Ngọc Quang - người quê Phú Yên cùng đi với tàu tôi lần này.

 

Biểu diễn nghệ thuật kỷ niệm 50 năm Ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển - Ảnh: X.HIẾU

 

Một tấm hải đồ tỉ lệ lớn trải rộng trên bàn trước mặt Tư lệnh. Nhìn trên đó người ta thấy dày đặc những mũi tên xanh đỏ cùng những ký hiệu minh họa tình hình có liên quan công tác vận chuyển được thu thập qua các nguồn tin mới nhất, đáng tin cậy.

 

Buổi họp giao nhiệm vụ sơ bộ chuyến đi bắt đầu. Đã nhiều lần nhận nhiệm vụ nhưng không biết sao lần này lòng tôi hồi hộp rộn ràng. Mặc dù Tư lệnh chưa nói nhưng qua tấm hải đồ mà mọi ký hiệu tình hình đều tập trung vùng biển Phú Yên. Như đoán được ý nghĩ trong lòng tôi, nên sau khi Trưởng phòng Quân báo Kim Sang báo cáo tình hình địch trên biển miền Nam nói chung và tập trung ở vùng biển Nam Trung Bộ, trên bờ khu vực tỉnh Phú Yên, Tư lệnh nói: “Năm 1963, tàu X chở 20 tấn vũ khí chi viện Khu 5 vào bến Lộ Diêu, tỉnh Bình Định. Lần đó tàu đến nơi, chuyển được hàng nhưng vì sóng to gió lớn nên không về hậu phương được, anh em phải phá tàu đi bộ về. Hiện nay, nhu cầu vũ khí ở chiến trường Khu 5 rất bức thiết. Tỉnh ủy các tỉnh ven biển Khu 5 đã cử người mang thư ra Trung ương xin chi viện vũ khí đang chờ chúng ta. Theo chỉ thị của Trung ương lần này ta đưa hàng vào Vũng Rô. Ngừng một lát, đồng chí nói tiếp: “Vì sao cấp trên và Thường vụ Đảng ủy quân chủng chọn Vũng Rô làm bến? Vũng Rô là vũng có độ nước sâu, tàu ra vào không lệ thuộc thủy triều; lại nằm kế sát đường sắt và quốc lộ 1, nơi địch rất sơ hở, nếu ta biết lợi dụng yếu tố bí mật bất ngờ thì ta sẽ thắng. Bên cạnh những ưu điểm đó, Vũng Rô là nơi dễ bị kẻ địch bao vây, chỉ cần một tàu đứng chặn giữa Mũi Điện và Hòn Nưa là tàu ta khó thoát. Bộ đã điện cho Khu 5 chuẩn bị đón. Tàu các đồng chí vào có thể gặp bến đón hoặc không gặp, nhưng dù gặp hay không gặp thì đồng chí Trần Ngọc Quang cũng phải ở lại nắm tình hình tổ chức bến rồi ra sau. Bộ Tham mưu và thủ trưởng Đoàn chuẩn bị chu đáo để Bộ Tư lệnh Quân chủng có thể giao nhiệm vụ chính thức cho tàu. Từ giờ phút này tàu 41 cách ly với các đơn vị trong đoàn và bên ngoài”.

 

Những ngày tiếp theo biết bao công việc bận rộn. Cán bộ tàu chúng tôi bò lăn ra nghiên cứu hải đồ, tính toán thủy triều, nhận dạng mục tiêu, tìm hướng đi tránh rađa cù lao Ré và Chóp Chài. Chính trị viên tàu lo công tác Đảng công tác chính trị.

 

Vừa chuẩn bị mọi mặt, vừa đón tiếp số anh em quân giải phóng quê ở Phú Yên bổ sung về tàu làm thủy thủ - Đó là các đồng chí Lê Kim Tự, Lê Xuân quê ở Hòa Hiệp, và đồng chí Trần Mỹ Thành quê ở Xuân Thịnh. Các anh vừa trải qua 3 tháng vượt Trường Sơn ra Bắc, thời gian nghỉ ngơi dưỡng sức chưa được bao lâu nay xuống tàu làm nhiệm vụ chở vũ khí bằng đường Hồ Chí Minh trên biển để về lại quê hương. Tàu có 21 đồng chí, hầu hết là anh em quê Phú Yên, Bình Định và một số ít anh em ở các tỉnh khác. Trừ 4 đồng chí có vợ con ở miền Nam và đồng chí Trần Ngọc Quang vừa mới có người yêu, số còn lại chưa một ai được “nếm mùi yêu đương”.

 

Một đêm nằm bên cạnh tôi, anh Quang tâm sự: “Từ hôm được tin cấp trên báo cho mình đi theo tàu cậu về lại quê hương chiến đấu, mình mừng quá không sao ngủ được”. Tôi nói khích vào: “Chớ không phải nhớ người yêu không ngủ được à?”. “Cái đó cũng có” - anh Quang nói. “Phải chăng lúc này mình cũng như cậu chưa đụng đến chuyện yêu đương thì sướng biết bao nhiêu. Tập “công văn tình cảm” của cô ấy cất kỹ dưới đáy ba lô và theo mình đi khắp nơi mãi đến chiều hôm qua sau một cuộc đấu tranh dằn vặt mình đã đốt hết rồi. Bây giờ mình thật sự yên tâm. Khi nào gặp lại cô ấy, cậu hãy nói giúp vì sao mình ra đi mà không để lại cho cô ấy một tín hiệu gì. Tất cả vì sự an toàn và thắng lợi của chuyến đi” - anh Quang trải lòng.

 

VƯỢT GIỚI TUYẾN

 

Mùa gió chướng về, mùa hoạt động của những con tàu Không số đã tới. Buổi giao nhiệm vụ chính thức chuyến đi mở đường vào bến Vũng Rô cho tàu 41 được tiến hành ngắn gọn. Sau khi nghe tôi báo cáo tình hình chuẩn bị chuyến đi và báo cáo bổ sung của Trưởng phòng Quân báo về tình hình địch ở khu vực bến, Tư lệnh quyết định phương án và thời gian xuất phát của tàu. Đồng chí nhấn mạnh: “Đây là bến mới, có thể lực lượng địa phương tổ chức đón và bốc hàng có khó khăn. Để bảo đảm bí mật sử dụng lâu dài bến mới này, thời gian cho phép tàu vào bến khoảng từ 23 đến 24 giờ và nhất thiết phải rời bến trước 3 giờ sáng”.

 

Buổi giao nhiệm vụ kết thúc, mọi người ra về. Tôi và anh Quang được Tư lệnh Quân chủng gặp riêng. Đi bách bộ dọc hành lang sở chỉ huy, đồng chí ân cần dặn chúng tôi phải hết sức cố gắng tập trung lãnh đạo chỉ huy để chuyến đi thắng lợi. Siết chặt tay, đồng chí chúc chúng tôi lên đường thắng lợi. Gặp anh Sáu và các anh ở bến gửi lời thăm.

 

Buổi chiều, tàu chuẩn bị xuất phát, cấp trên cho xe chở đến 3 người khách. Anh Võ quê ở Bình Định, anh Long, anh Kiến quê ở Quảng Nam. Các anh nhận nhiệm vụ vào tăng cường cho bến.

 

24 giờ ngày 16/11/1964, tàu rời bến Bãi Cháy. Các đồng chí Tư lệnh Quân chủng, Đoàn trưởng và Chính ủy Đoàn ôm hôn thắm thiết cán bộ chiến sĩ của tàu. “Chúc tàu 41 hành trình thuận buồm xuôi gió. Bộ Tư lệnh chờ tin thắng lợi của các đồng chí báo về”. Tình cảm hậu phương lớn làm ấm lòng các chiến sĩ trên đường về tiền tuyến lớn.

 

Trăng trung tuần tháng 11 tỏa sáng một vùng bát ngát mênh mông. Sau trận gió mùa đông bắc biển lặng sóng, con tàu lướt nhẹ êm ru. Giữa cảnh trời nước mênh mông trăng thanh gió mát, trừ các cán bộ và thủy thủ trực canh còn lại tập trung trên boong tàu uống trà trò chuyện và ca hát. Các đồng chí khách trải chiếu nằm trên hầm hàng nói cười sảng khoái. Anh Kiến nói với tôi: “Mình ra trận như là đi du lịch thế này thì còn gì bằng. Các ông lính hải quân thật là sướng”. Đúng là như thế, giữa mùa đông, mùa của gió chướng cấp 7 cấp 8 mà có một đêm biển lặng như thế này là hiếm. Riêng chúng tôi, những người lính biển hiểu rất rõ biển lặng hôm nay là giao thời của những trận gió mùa đông bắc, nó chỉ có trong chốc lát. Và trong hoạt động của đoàn tàu Không số chúng tôi thì ngược lại, “biển lặng là thời tiết xấu” khó tránh các trạm rađa và các tàu tuần tiễu của địch.

 

Gần sáng, biển bắt đầu lên tiếng. Con tàu được sóng biển nâng lên và đột nhiên hạ xuống giữa 2 đợt sóng của gió mùa. Tốc độ tàu giảm, tàu lắc lư như người say chao đảo. Trong khoang ngủ của thủy thủ, đồ đạc văng tung tóe. Đó đây là một vài người nôn mửa. Không chỉ có khách mà có cả người của tàu. Càng về trưa, sóng càng lớn không nấu cơm được phải ăn bằng lương khô.

 

Tàu hành trình được 2 ngày thì có điện của sở chỉ huy: “Dừng lại ở vùng đảo của bạn chờ lệnh”. Tranh thủ thời gian, chúng tôi tiếp tục huấn luyện các phương án chiến đấu. Thời gian chờ đợi nặng nề trôi.

 

18 giờ ngày 26/11/1964, tàu vượt qua “giới tuyến tạm thời” trên biển. Tuy là giới tuyến tạm thời nhưng với chúng tôi thì đây là tuyến chiến đấu. Tôi ra lệnh nâng cấp sẵn sàng chiến đấu và tăng cường quan sát. Thuyền phó Hồng Lỳ trực tiếp đến từng giường của các đồng chí khách phổ biến tình hình. Tôi đang loay hoay đo đạc xác định vị trí tàu thì nghe phía sau có người hô to: “Xin chào miền Nam tiền tuyến lớn, chúng tôi đang về theo tiếng gọi của quê hương”. Đó là anh Võ - người khách duy nhất trên tàu không say sóng. Anh đang giơ tay vẫy chào tạm biệt miền Bắc và giang tay ôm lấy miền Nam trong giây phút bồi hồi xúc động khi biết tàu qua giới tuyến tạm thời.

 

Tàu vẫn hành trình theo kế hoạch, thông tin liên lạc giữa tàu và chỉ huy sở vẫn được giữ vững. Khoảng 12 giờ trưa, đồng chí cơ yếu đưa tôi bức điện, nội dung: “Bộ Tư lệnh vùng 1 Duyên hải ngụy phái 2 tàu chiến hộ tống một phái đoàn Mỹ đi thị sát rađa cù lao Ré, tàu 41 khi qua vùng biển Đà Nẵng - Lý Sơn phải chú ý. Tình hình bến rất êm”.

 

Đêm trên vùng biển miền Trung, ảnh hưởng gió mùa đông bắc có giảm chút ít nhưng vẫn còn sóng cấp 5 cấp 6. Xa xa một vài chiếc ghe lưới chuồn chập chờn trên sóng biển.

 

Ngày 28/11/1964, ngày hành trình cuối cùng của tàu. 3 ngày đêm qua, ngoài sự chịu đựng sóng gió, tàu 2 lần cơ động tránh tàu tuần tiễu của địch. Khoảng 5 giờ sáng, 1 máy bay của ngụy từ một căn cứ trên đất liền (có lẽ là Phù Cát hoặc Đông Tác) bay đến lượn trên tàu nhiều lần ở độ cao 50 đến 100m. Sau khi hội ý cán bộ tàu, tôi cho một thủy thủ mang cờ ba que kéo lên đỉnh cột, đồng thời cho anh em mang những con cá ướp đá và những bó mực khô đã chuẩn bị sẵn cùng với những chai rượu giơ cao như vẫy gọi, như mời chào “người bạn đường trên biển” xuống nhậu.

 

Sau mấy lần quần lượn trên tàu, lúc cắt ngang, lúc bay dọc theo tàu - có lẽ để xác định hướng đi của tàu - rồi bay thẳng về hướng đất liền. Không khí trên tàu sôi động hẳn lên. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ. Số anh em mới đi chuyến đầu và khách rất lo lắng. Cảm giác “đi chiến trường như đi du lịch không còn nữa”. Tôi nói với anh Võ: “Ở trên bộ khi gặp địch còn có thể tìm chỗ ẩn nấp hoặc khi không thể tránh được thì nổ súng và chẳng may phải hy sinh, không sớm thì muộn đồng đội sẽ tìm đến đưa thi hài về chôn cất. Còn ở đây biển cả mênh mông, con tàu như chiếc lá trên mặt nước, tìm chỗ ẩn nấp chỉ bằng cách tự giấu tung tích của mình để đạt đến đích cuối cùng là đưa vũ khí vào đến chiến trường. Trong trường hợp buộc phải chiến đấu thì phải đánh đến cùng và khi có nguy cơ rơi vào tay địch thì sử dụng khối bộc phá ngàn cân làm nổ tung tàu sao cho không còn một dấu vết”.

 

Kỳ 2: Đối mặt với tàu địch

 

Hồi ký của HỒ ĐẮC THẠNH

Nguyên Thuyền trưởng tàu 41 - Đoàn tàu Không số

BÌNH LUẬN
Mã xác nhận:



Nhập mã:

LIÊN KẾT
Báo Phú Yên Online - Địa chỉ: https://baophuyen.vn
Cơ quan chủ quản: Tỉnh ủy Phú Yên - Giấy phép hoạt động báo chí số 681/GP-BTTT do Bộ TT-TT cấp ngày 21/10/2021
Phó Tổng biên tập: Nguyễn Khánh Minh
Tòa soạn: 62 Lê Duẩn, phường 7, TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
Điện thoại: (0257) 3841519 - (0257) 3842488 , Fax: 0257.3841275 - Email: toasoandientu@baophuyen.vn
Trang chủ | Toà soạn | Quảng cáo | Đặt báo | Liên hệ
Bản quyền 2005 thuộc Báo Phú Yên Online
Thiết kế bởi nTek